1Wed Jun 15, 2011 11:35 am by Đông A Phủ
Ứng Thiên Hóa Dục Nguyên Trung Hậu Thổ Địa Kỳ Nguyên Quân
(Hậu Thổ Phu Nhân)
Truyện Báo Cực chép rằng: Nguyên Quân tức là Nam Quốc Chủ Đại Địa Thần.
Xưa kia, Lý Thánh Tông nam chinh Chiêm Thành, đến cửa biển Hoàn Hải thoắt bị gió to mưa lớn, sóng cuộn ầm ầm, long thuyền dao động cơ hồ muốn chuyển; nguy cấp không ngờ, vua rất lo sợ.
Giữa lúc đang bàng hoàng, vua bỗng thấy một người con gái ước độ hai mươi tuổi, mặt tựa hoa đào, mày đậm màu dương liễu, mắt sáng như sao, miệng cười như hoa nở; nàng mặc áo trắng, quần lục, lưng mang đai, dịu dàng bước đến bạch với vua rằng:
- Thiếp là tinh của đại địa Nam Quốc, thác cư ở làng Thuỷ Vân đã lâu lắm, xem thời mà ra nếu gặp được lúc tốt. Bây giờ gặp được Long nhan, chí nguyện sinh bình được thỏa, cúi xin Bệ hạ chuyến đi này nên hết sức mẫn cán, toàn thu hoạch thắng lợi. Thiếp tuy là bồ liễu mong manh cũng nguyền đem sức mọn mặc nhiên phù tá Bệ hạ; ngày khải hoàn, thiếp xin chực đây để bái yết.
Nói đoạn biến mất. (1)
Vua kinh hãi tỉnh giấc, nhưng lại hoan hỉ ngay mới triệu tả hữu đến, thuật chuyện trong mộng cho mọi người nghe; tăng thống Huệ Lâm Sinh tâu rằng:
- Thần có nói là thác sinh trên cây, ở làng Thuỷ Vân, bây giờ nên tìm ở cây hoặc giả có linh nghiệm gì chăng?
Vua cho là phải, mới bảo ngừơi tuỳ tùng đi tìm ở các bãi sông quả nhiên được một cái cây, đầu rất giống người, hình như có dấu sơn cũ giống như đã trông thấy trong mộng.
Vua mới lập hiệu là Hậu Thổ Phu Nhân, đặt hương án ở trong ngự thuyền, tự nhiên sóng gió êm lặng, cây cối hết lay chuyển.
Kịp lúc vua đến Chiêm Thành, trong khi giáp trận như có Thần giúp (2), quả được đại thắng. Ngày khải hoàn, ngự thuyền đậu lại chỗ cũ, sắc lệnh lập đền, gió mưa lại nổi lên như xưa. Sư Huệ Lâm tâu:
- Để xin một keo, về Kinh Sư sẽ lập đền.
Xin một keo liền được ngay; gió mưa lại êm lặng.
Về đến kinh đô, vua bảo thầy xem đất, xây đắp đền thờ ở làng An Lãng, rất có linh ứng, hễ có người nào phỉ báng nguyền rủa, lập tức mắc phải tai họa.
Thời vua Anh Tông, nhân trời đại hạn, quần thần xin đắp một cái đàn hình tròn ở Nam Giao để tế trời, thỉnh Nguyên Quân làm đàn chủ.
Nguyên Quân cho vua nằm thấy rằng:
- Bản bộ có thần Câu Mang làm mưa rất giỏi.
Vua lấy làm mừng mới hội nghị quần thần lại, định rước thần Hậu Tắc phồi với trời, thần Hậu Thổ phối với đất, lập đàn ở Nam Giao mà đảo. Quả nhiên được mưa to xối xả.
Vua cả mừng, sắc hạ rằng:
- Hậu Thổ Phu Nhân có Câu Mang Thần Quân là chủ về việc mùa xuân; từ nay về sau phàm đến lễ Lập Xuân có con trâu đất phải đem về nạp ở đền thờ.
Niên hiệu Trùng Hưng năm đầu, sắc phong Hậu Thổ Thần Địa Kỳ Nguyên Quân. Năm thứ tư, gia phong hai chữ Nguyên Trung. Năm Hưng Long thứ hai mươi mốt, gia phong bốn chữ Ứng Thiên Hóa Dục.
Tiếm bình
Trước khi vua nhập mộng thì mé biển một gốc cây khô. Một ngày tìm đến thuyền vua mà hiệu linh, thu góp gió mưa, đuổi êm sóng cả, giúp võ công ở Lâm Ap, khởi đền thờ ở Lãng Hương, làm Hoàn Khẩu đàn chủ, làm Hậu Thổ Phu Nhân, nhưng xét đến lai lịch, chỉ xưng là Đại Địa Chi Tinh, danh tịch mịt mờ, không được rõ ràng cho lắm, sự tích rất là khó hiểu. Mà sao anh linh rõ rệt, vang dội cõi trần, hễ có cầu tạnh, đảo mưa, lập tức hiệu nghiệm, thời được vua phong hưởng cũng là rất phải. Còn chiếu phụng bao phong các chữ đó thì kín đáo, duy có hai chữ “Nguyên Trung” không hiểu ra làm sao.
-------------------
Ghi chú:
1) Bản dịch và lời bình của Hoàng Xuân Hãn (Sđd). Trong lúc Lý Thánh Tông vượt bể, hình như có gặp sóng gió to. Sách Việt Điện U Linh còn chép chuyện thần Hậu thổ địa kỳ giúp vua qua bể. Chuyện như sau: “khi Lý Thánh Tôn đến cửa bể Hoàn (?), thình lình bão to mưa lớn, sóng nổi ngùn ngụt. Thuyền vua không tiến được. Đêm đến, vua mộng thấy một đàn bà, áo trắng, quần lục, nói với vua: “Tôi là tinh đất nước Nam, giả làm một cây gỗ đã lâu năm để đợi thời. Nay thời đã đến. Giúp vua không chỉ đánh được giặc, mà nước nhà còn có chỗ nhờ”. Nói xong, biến mất. Tỉnh dậy, vua sợ. Đem việc hỏi chung quanh. Có sư Huệ sinh nói nên tìm cây gỗ có thần ẩn. Quân lên núi, thấy một cây gỗ hình người. Đem xuống thuyền. Vua sai đem làm tượng, mặc áo quần như thấy trong mộng và ban hiệu Hậu thổ phu nhân, và đặt ở thuyền vua. Thuyền bèn êm không lắc nữa. Lúc được trận về đến chỗ cũ, vua sai lập đền thờ. Nhưng tối đến, mưa gió lại nổi lên. Sư Huệ sinh xin đem tượng về kinh. Sóng gió bèn lặng. Về đến kinh vua sai lập đền thờ ở làng Yên Lãng”.
Chuyện trên này đời sau viết, cho nên có sự lầm. Ví như vị sư Huệ sinh, thì các bản sao viết Huệ Lâm sinh hay là Huệ Lâm, sách TUTA/57b có chép chuyện tăng thống Huệ sinh họ Lâm, chắc là vị ấy. Nhưng Huệ sinh mất năm 1064, trước năm Thánh Tông đánh Chiêm Thành 5 năm.
2) Ngày xuất quân là mồng 8-3-1069. Trên đường đi hay đường về đều có rồng vàng hiện long thuyền, như ngày 15-3, ngày 18-3 đêm 31-3. Khi vua đem quân về cũng thấy rồng xuất hiện, đêm 19-6, ngày 25-6. Đặc biệt là khi thuyền vào cửa Thi lị bì nại của Chiêm Thành, ngày 3-4 có 2 con chim bay theo ngự thuyền như muốn dẫn đường (Việt Sử Lược II, 13b). Như vậy rồng vàng và chim là linh ứng của thần chăng?
-------------------------------
Đình Ứng Thiên xưa thuốc trại An Lãng, huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên, bên cạnh thành Thăng Long. Đó là ba làng Láng nổi tiếng về nghề trồng rau của đất kinh thành: “Dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần…”-Láng Thượng, Láng Trung và Láng Hạ. Đình thuộc đất làng Láng Hạ, nay là phường Láng Hạ, quận Đống Đa, Hà Nội. Khu vực ba làng Láng là một nơi có mật độ di tích khá dầy đặc. Nổi tiếng nhất phải kể đến chùa Láng nơi có hội lớn trùng ngày với hội đình Ứng Thiên.
Chùa Láng cũng là nơi gắn liền với vị thiền sư nổi tiếng của nước nam là Từ Đạo Hạnh, tương truyền đây là quê hương của ngài. Vì vậy nơi đây còn có những di tích khác liên quan đến thiền sư và những người thân của ông. Đó là chùa Nền( thuộc Láng Hạ) chỉ cách chùa Láng (thuộc làng Láng thượng) khoảng 500 m về phía nam. Theo dân gian chùa Nền được xây dựng ngay trên nền nhà của song thân Từ Đạo Hạnh.
Đền Linh Lang, đền Voi Phục, thuộc làng Láng Thượng, nay ở trong công viên Thủ Lệ, thờ hoàng tử Linh Lang. Chùa Cẩm Ứng thuộc làng Láng Hạ thờ đức Phật địa Mẫu. Chùa Miễu của làng Láng Hạ nay thuộc phường Thịnh Quang. Đền thờ Cao Sơn đại vương ở Láng Trung. Đền thờ công chúa Vĩnh Gia, một vị tướng của Hai Bà Trưng, trên đất Láng Thượng. Đền thờ Du Dơ là nơi thờ bà Từ Nương, chị của đức thánh Từ Đạo Hạnh, được dựng trên đất làng Láng Thượng gần chùa Láng. Đền Tá Trực đại vương là ngôi đền nằm giữa làng Láng Hạ và làng Thịnh Quang. Sau này ông được rước về đình Ứng Thiên thờ trong cung Mẫu. Như vậy ba làng Láng xưa với 9 xóm có tới 9 di tích thờ tự mà hầu hết còn giữ được đến tận ngày nay và có lien quan mật thiết với nhau.
Đình Thiên Ứng là một trong những di tích quan trọng của địa phương. Đình có kiến trúc hình chữ công đã được tu bổ và sửa sang nhiều lần đời Lý-Trần-Lê và niên đại sửa chữa lần cuối cùng được ghi vào đời Thành Thái thứ hai (1890). Cấu trúc của đình gồm có nhà tiền tế, phương đình với hai dãy giải vũ nằm song song. Phần thờ tự chính xây liền với phương đình. Đình còn giữ được nhiều trang trí kiến trúc, chạm khắc, hoành phi câu đối quý báu. Theo dân gian ở đây thì đình Ứng Thiên có nguồn gốc từ một ngôi đền cổ thờ nữ thần Nguyên quân hậu thổ từ thời Lý. Tương truyền do vua Lý Thánh Tông dựng sau cuộc chinh phạt Chiêm Thành vào năm 1069, nhằm nhớ ơn vị thần đã có công giúp nhà vua đánh thắng giặc trong cuộc chinh phạt này. Mãi đến thời Lê Trung Hưng mới mở rộng và trở thành đình của làng Láng Hạ.
Tương truyền tại đình Ứng Thiên còn thờ cả đức Phật Địa Mẫu hư không-là người sinh ra muôn loài trên trái đất, vì vậy xưa kia đây còn là một trung tâm phật giáo lớn của kinh thành. Suốt tháng ba người tứ xứ đến lễ mẫu, lễ Phật, lễ Thần ở đây không ngớt. Vì vậy hội tháng ba là dịp thu hút khách đông nhất trong năm.
------------------------------
hời gian: 6 - 8/3 âm lịch và 26/9 âm lịch.
Địa điểm: Phường Láng Hạ, quận Đống Đa, TP. Hà Nội. (đầu ngã tư Láng Hạ, đường Láng, Lê Văn Lương - gần KFC )
Đối tượng suy tôn: Nữ thần Nguyên quân hậu thổ, Linh Lang, Từ Nương tôn thần, Cao Sơn đại vương, Vĩnh Gia công chúa.
Đặc điểm: Thờ Mẫu trong đình. Nghi lễ có lễ tắm tượng, tế lễ, dâng hương. Hội diễn ra đồng thời ở cả ba làng Láng (Láng Thượng, Láng Trung, Láng Hạ).
Nguồn: Tổng cục du lịch Việt Nam
Ngoài nhưng ngày hội ở trên ra thì ĐÌnh còn một ngày hội nữa là ngày 18 tháng 10 âm lịch. Đây là ngày hoá của Thánh Mẫu Địa.
Điều này chỉ có các Cụ trong làng và những người có chức trong Ban Quản lý Di tích là hiểu nhất
(Hậu Thổ Phu Nhân)
Truyện Báo Cực chép rằng: Nguyên Quân tức là Nam Quốc Chủ Đại Địa Thần.
Xưa kia, Lý Thánh Tông nam chinh Chiêm Thành, đến cửa biển Hoàn Hải thoắt bị gió to mưa lớn, sóng cuộn ầm ầm, long thuyền dao động cơ hồ muốn chuyển; nguy cấp không ngờ, vua rất lo sợ.
Giữa lúc đang bàng hoàng, vua bỗng thấy một người con gái ước độ hai mươi tuổi, mặt tựa hoa đào, mày đậm màu dương liễu, mắt sáng như sao, miệng cười như hoa nở; nàng mặc áo trắng, quần lục, lưng mang đai, dịu dàng bước đến bạch với vua rằng:
- Thiếp là tinh của đại địa Nam Quốc, thác cư ở làng Thuỷ Vân đã lâu lắm, xem thời mà ra nếu gặp được lúc tốt. Bây giờ gặp được Long nhan, chí nguyện sinh bình được thỏa, cúi xin Bệ hạ chuyến đi này nên hết sức mẫn cán, toàn thu hoạch thắng lợi. Thiếp tuy là bồ liễu mong manh cũng nguyền đem sức mọn mặc nhiên phù tá Bệ hạ; ngày khải hoàn, thiếp xin chực đây để bái yết.
Nói đoạn biến mất. (1)
Vua kinh hãi tỉnh giấc, nhưng lại hoan hỉ ngay mới triệu tả hữu đến, thuật chuyện trong mộng cho mọi người nghe; tăng thống Huệ Lâm Sinh tâu rằng:
- Thần có nói là thác sinh trên cây, ở làng Thuỷ Vân, bây giờ nên tìm ở cây hoặc giả có linh nghiệm gì chăng?
Vua cho là phải, mới bảo ngừơi tuỳ tùng đi tìm ở các bãi sông quả nhiên được một cái cây, đầu rất giống người, hình như có dấu sơn cũ giống như đã trông thấy trong mộng.
Vua mới lập hiệu là Hậu Thổ Phu Nhân, đặt hương án ở trong ngự thuyền, tự nhiên sóng gió êm lặng, cây cối hết lay chuyển.
Kịp lúc vua đến Chiêm Thành, trong khi giáp trận như có Thần giúp (2), quả được đại thắng. Ngày khải hoàn, ngự thuyền đậu lại chỗ cũ, sắc lệnh lập đền, gió mưa lại nổi lên như xưa. Sư Huệ Lâm tâu:
- Để xin một keo, về Kinh Sư sẽ lập đền.
Xin một keo liền được ngay; gió mưa lại êm lặng.
Về đến kinh đô, vua bảo thầy xem đất, xây đắp đền thờ ở làng An Lãng, rất có linh ứng, hễ có người nào phỉ báng nguyền rủa, lập tức mắc phải tai họa.
Thời vua Anh Tông, nhân trời đại hạn, quần thần xin đắp một cái đàn hình tròn ở Nam Giao để tế trời, thỉnh Nguyên Quân làm đàn chủ.
Nguyên Quân cho vua nằm thấy rằng:
- Bản bộ có thần Câu Mang làm mưa rất giỏi.
Vua lấy làm mừng mới hội nghị quần thần lại, định rước thần Hậu Tắc phồi với trời, thần Hậu Thổ phối với đất, lập đàn ở Nam Giao mà đảo. Quả nhiên được mưa to xối xả.
Vua cả mừng, sắc hạ rằng:
- Hậu Thổ Phu Nhân có Câu Mang Thần Quân là chủ về việc mùa xuân; từ nay về sau phàm đến lễ Lập Xuân có con trâu đất phải đem về nạp ở đền thờ.
Niên hiệu Trùng Hưng năm đầu, sắc phong Hậu Thổ Thần Địa Kỳ Nguyên Quân. Năm thứ tư, gia phong hai chữ Nguyên Trung. Năm Hưng Long thứ hai mươi mốt, gia phong bốn chữ Ứng Thiên Hóa Dục.
Tiếm bình
Trước khi vua nhập mộng thì mé biển một gốc cây khô. Một ngày tìm đến thuyền vua mà hiệu linh, thu góp gió mưa, đuổi êm sóng cả, giúp võ công ở Lâm Ap, khởi đền thờ ở Lãng Hương, làm Hoàn Khẩu đàn chủ, làm Hậu Thổ Phu Nhân, nhưng xét đến lai lịch, chỉ xưng là Đại Địa Chi Tinh, danh tịch mịt mờ, không được rõ ràng cho lắm, sự tích rất là khó hiểu. Mà sao anh linh rõ rệt, vang dội cõi trần, hễ có cầu tạnh, đảo mưa, lập tức hiệu nghiệm, thời được vua phong hưởng cũng là rất phải. Còn chiếu phụng bao phong các chữ đó thì kín đáo, duy có hai chữ “Nguyên Trung” không hiểu ra làm sao.
-------------------
Ghi chú:
1) Bản dịch và lời bình của Hoàng Xuân Hãn (Sđd). Trong lúc Lý Thánh Tông vượt bể, hình như có gặp sóng gió to. Sách Việt Điện U Linh còn chép chuyện thần Hậu thổ địa kỳ giúp vua qua bể. Chuyện như sau: “khi Lý Thánh Tôn đến cửa bể Hoàn (?), thình lình bão to mưa lớn, sóng nổi ngùn ngụt. Thuyền vua không tiến được. Đêm đến, vua mộng thấy một đàn bà, áo trắng, quần lục, nói với vua: “Tôi là tinh đất nước Nam, giả làm một cây gỗ đã lâu năm để đợi thời. Nay thời đã đến. Giúp vua không chỉ đánh được giặc, mà nước nhà còn có chỗ nhờ”. Nói xong, biến mất. Tỉnh dậy, vua sợ. Đem việc hỏi chung quanh. Có sư Huệ sinh nói nên tìm cây gỗ có thần ẩn. Quân lên núi, thấy một cây gỗ hình người. Đem xuống thuyền. Vua sai đem làm tượng, mặc áo quần như thấy trong mộng và ban hiệu Hậu thổ phu nhân, và đặt ở thuyền vua. Thuyền bèn êm không lắc nữa. Lúc được trận về đến chỗ cũ, vua sai lập đền thờ. Nhưng tối đến, mưa gió lại nổi lên. Sư Huệ sinh xin đem tượng về kinh. Sóng gió bèn lặng. Về đến kinh vua sai lập đền thờ ở làng Yên Lãng”.
Chuyện trên này đời sau viết, cho nên có sự lầm. Ví như vị sư Huệ sinh, thì các bản sao viết Huệ Lâm sinh hay là Huệ Lâm, sách TUTA/57b có chép chuyện tăng thống Huệ sinh họ Lâm, chắc là vị ấy. Nhưng Huệ sinh mất năm 1064, trước năm Thánh Tông đánh Chiêm Thành 5 năm.
2) Ngày xuất quân là mồng 8-3-1069. Trên đường đi hay đường về đều có rồng vàng hiện long thuyền, như ngày 15-3, ngày 18-3 đêm 31-3. Khi vua đem quân về cũng thấy rồng xuất hiện, đêm 19-6, ngày 25-6. Đặc biệt là khi thuyền vào cửa Thi lị bì nại của Chiêm Thành, ngày 3-4 có 2 con chim bay theo ngự thuyền như muốn dẫn đường (Việt Sử Lược II, 13b). Như vậy rồng vàng và chim là linh ứng của thần chăng?
-------------------------------
Đình Ứng Thiên xưa thuốc trại An Lãng, huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên, bên cạnh thành Thăng Long. Đó là ba làng Láng nổi tiếng về nghề trồng rau của đất kinh thành: “Dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần…”-Láng Thượng, Láng Trung và Láng Hạ. Đình thuộc đất làng Láng Hạ, nay là phường Láng Hạ, quận Đống Đa, Hà Nội. Khu vực ba làng Láng là một nơi có mật độ di tích khá dầy đặc. Nổi tiếng nhất phải kể đến chùa Láng nơi có hội lớn trùng ngày với hội đình Ứng Thiên.
Chùa Láng cũng là nơi gắn liền với vị thiền sư nổi tiếng của nước nam là Từ Đạo Hạnh, tương truyền đây là quê hương của ngài. Vì vậy nơi đây còn có những di tích khác liên quan đến thiền sư và những người thân của ông. Đó là chùa Nền( thuộc Láng Hạ) chỉ cách chùa Láng (thuộc làng Láng thượng) khoảng 500 m về phía nam. Theo dân gian chùa Nền được xây dựng ngay trên nền nhà của song thân Từ Đạo Hạnh.
Đền Linh Lang, đền Voi Phục, thuộc làng Láng Thượng, nay ở trong công viên Thủ Lệ, thờ hoàng tử Linh Lang. Chùa Cẩm Ứng thuộc làng Láng Hạ thờ đức Phật địa Mẫu. Chùa Miễu của làng Láng Hạ nay thuộc phường Thịnh Quang. Đền thờ Cao Sơn đại vương ở Láng Trung. Đền thờ công chúa Vĩnh Gia, một vị tướng của Hai Bà Trưng, trên đất Láng Thượng. Đền thờ Du Dơ là nơi thờ bà Từ Nương, chị của đức thánh Từ Đạo Hạnh, được dựng trên đất làng Láng Thượng gần chùa Láng. Đền Tá Trực đại vương là ngôi đền nằm giữa làng Láng Hạ và làng Thịnh Quang. Sau này ông được rước về đình Ứng Thiên thờ trong cung Mẫu. Như vậy ba làng Láng xưa với 9 xóm có tới 9 di tích thờ tự mà hầu hết còn giữ được đến tận ngày nay và có lien quan mật thiết với nhau.
Đình Thiên Ứng là một trong những di tích quan trọng của địa phương. Đình có kiến trúc hình chữ công đã được tu bổ và sửa sang nhiều lần đời Lý-Trần-Lê và niên đại sửa chữa lần cuối cùng được ghi vào đời Thành Thái thứ hai (1890). Cấu trúc của đình gồm có nhà tiền tế, phương đình với hai dãy giải vũ nằm song song. Phần thờ tự chính xây liền với phương đình. Đình còn giữ được nhiều trang trí kiến trúc, chạm khắc, hoành phi câu đối quý báu. Theo dân gian ở đây thì đình Ứng Thiên có nguồn gốc từ một ngôi đền cổ thờ nữ thần Nguyên quân hậu thổ từ thời Lý. Tương truyền do vua Lý Thánh Tông dựng sau cuộc chinh phạt Chiêm Thành vào năm 1069, nhằm nhớ ơn vị thần đã có công giúp nhà vua đánh thắng giặc trong cuộc chinh phạt này. Mãi đến thời Lê Trung Hưng mới mở rộng và trở thành đình của làng Láng Hạ.
Tương truyền tại đình Ứng Thiên còn thờ cả đức Phật Địa Mẫu hư không-là người sinh ra muôn loài trên trái đất, vì vậy xưa kia đây còn là một trung tâm phật giáo lớn của kinh thành. Suốt tháng ba người tứ xứ đến lễ mẫu, lễ Phật, lễ Thần ở đây không ngớt. Vì vậy hội tháng ba là dịp thu hút khách đông nhất trong năm.
------------------------------
hời gian: 6 - 8/3 âm lịch và 26/9 âm lịch.
Địa điểm: Phường Láng Hạ, quận Đống Đa, TP. Hà Nội. (đầu ngã tư Láng Hạ, đường Láng, Lê Văn Lương - gần KFC )
Đối tượng suy tôn: Nữ thần Nguyên quân hậu thổ, Linh Lang, Từ Nương tôn thần, Cao Sơn đại vương, Vĩnh Gia công chúa.
Đặc điểm: Thờ Mẫu trong đình. Nghi lễ có lễ tắm tượng, tế lễ, dâng hương. Hội diễn ra đồng thời ở cả ba làng Láng (Láng Thượng, Láng Trung, Láng Hạ).
Nguồn: Tổng cục du lịch Việt Nam
Ngoài nhưng ngày hội ở trên ra thì ĐÌnh còn một ngày hội nữa là ngày 18 tháng 10 âm lịch. Đây là ngày hoá của Thánh Mẫu Địa.
Điều này chỉ có các Cụ trong làng và những người có chức trong Ban Quản lý Di tích là hiểu nhất
Được sửa bởi dongaphu ngày Thu Apr 19, 2012 11:37 pm; sửa lần 1.